Thứ Năm, 19 tháng 11, 2015

Thách thức của quá trình hội tụ kế toán quốc tế

2. Thách thức hội tụ kế toán quốc tế từ chuẩn mực tới thực tiễn
thach-thuc-cua-qua-trinh-hoi-tu-ke-toan-quoc-te-va-nhung-kinh-nghiem-cho-viet-nam-2
Bạn có thể quan tâm: dch v kế toán trn gói ti Hà Ni 
3. các kinh nghiệm cho Việt Nam trong tiến trình hội tụ kế toán quốc tế
Hội tụ kế toán quốc tế từ chuẩn mực đến thực tiễn đầy thử thách, vẫn còn một khoảng cách nhất định để đạt được mục tiêu chung nhằm xây dựng chuẩn mực quốc tế chất lượng cao. quá trình đấy là bài toán phức tạp và nan giải bởi chúng xuất xứ từ nhiều nguyên do khác nhau về môi trường kinh doanh, pháp lý và văn hóa trong mỗi quốc gia. bởi thế, xu hướng hội tụ kế toán của một số quốc gia có thể thống nhất trong chuẩn mực nhưng chưa hoàn toàn nhất quán trong thực tế.
Dịch vụ của chúng tôi: làm báo cáo thuế

2.3. Úc
Úc đã sở hữu các bước chuẩn bị nhất định cho việc chuyển đổi từ CMKT Úc sang IAS/IFRS từ năm 2002 và Úc đã chính thức chuyển sang áp dụng IAS/IFRS từ ngày 01.01.2005. Úc là một trong những quốc gia trước tiên áp dụng IAS/IFRS. Tuy nhiên, Hội đồng chuẩn mực kế toán của Úc (AASB) đã xem xét việc ban hành IAS/IFRS tại riêng quốc gia. Theo đấy, CMKT Úc đã sở hữu sự chỉnh sửa cho tương thích với môi trường pháp lý và những đặc điểm riêng biệt để thích hợp mang Úc. CMKT Úc ko đơn thuần là IAS/IFRS mà bản chất đã với sự thay đổi theo hình thức A-IAS/IFRS (IAS/IFRS đã được chuyển đổi theo Úc). Sự điều chỉnh của A-IAS/IFRS bao gồm các thay đổi trong việc lựa tìm được ban hành theo IAS/IFRS và bổ sung các hướng dẫn và thay đổi một số thuật ngữ khác so có IAS/IFRS. Chính sự điều chỉnh, bổ sung này dẫn đến A-IAS/IFRS ko nhất quán mang IAS/IFRS. Việc áp dụng IAS/IFRS theo phương bí quyết trung lập A-IAS/IFRS của Úc đã tạo nên phổ biến khác biệt không chỉ trong hệ thống CMKT mà ngay cả những doanh nghiệp khi áp dụng vào thực tế.
Trong nghiên cứu về việc đo lường giá trị thông minh, lựa mua chính sách kế toán của hai quốc gia Anh và Úc, David Cairns et al. (2008) đã tiêu dùng mô hình 228 công ty tương ứng mỗi quốc gia 114 để đo lường trên BCTC những năm 2004 – 2006 có 20 khoản mục. Nhìn chung kết quả cho thấy việc thực thi IAS/IFRS của Úc không sở hữu sự khác biệt giữa trước và sau khi áp dụng IAS/IFRS. ko kể ra, trong 1 nghiên cứu thực nghiệm của Tyrone Carlin, Nigel Finch (2008) nhằm xác định giá trị lợi thế thương mại được thực hiện bởi các nhà hàng Úc áp dụng theo IAS/IFRS trong hai năm 2006 và 2007. Mô hình nghiên cứu đã sử dụng BCTC của 50 doanh nghiệp niêm yết to nhất của Úc. Qua thực nghiệm cho thấy, mức độ những nhà hàng áp dụng nội dung về lợi thế thương mại trên bảng cân đối kế toán toàn bộ ko thỏa mãn bắt buộc. Như vậy, CMKT của Úc hướng đến IAS/IFRS nhưng thực tế BCTC của những siêu thị không nhất quán. những siêu thị không sẵn lòng thực hiện theo những bắt buộc IAS/IFRS.
Mặc dù Úc chấp nhận hầu hết những chuẩn mực theo IAS/IFRS nhưng Úc vẫn với những điều chỉnh nhất định cho thích hợp sở hữu đặc điểm riêng của quốc gia. Việc xây dựng CMKT quốc gia như Úc là một hướng tiếp cận riêng, thể hiện chính sách trung lập trong việc thực thi CMKT quốc tế.
Thách thức của công đoạn hội tụ kế toán quốc tế và những kinh nghiệm cho Việt Nam (Phần 2)
2.4. Trung Quốc
Bộ Tài chính (BTC) Trung Quốc bắt đầu thiết lập CMKT từ năm 1988. Cuối năm 1992, BTC đã tăng trưởng chuẩn mực cơ bản của kế toán cho hoạt động siêu thị (tương tự khuôn cái lý thuyết). Điều này đánh dấu sự kiện trong cải bí quyết kế toán của Trung Quốc, bãi bỏ hệ thống kế toán truyền thống và tiêu dùng chuẩn mực quốc tế. Sau ấy, khuôn dòng lý thuyết ban hành năm 1992 được thay thế bởi 16 CMKT và các qui định khác như hệ thống kế toán cho hoạt động siêu thị (ASBE) ban hành 2001. Mục đích của ASBE là so sánh thông tin tài chính, hạch toán tách biệt giữa thuế và kế toán, đảm bảo hội nhập mang thực hành kế toán được chấp nhận bởi quốc tế. Tuy nhiên, trước sức ép hội nhập kinh tế thế giới, Trung Quốc đã chấp nhận xây dựng hệ thống CMKT mới theo hướng hội tụ kế toán quốc tế trên cơ sở IAS/IFRS gồm 38 CMKT có hiệu lực từ ngày 1.1.2007. Việc chuyển đổi chuẩn mực Trung Quốc gần có IAS/IFRS nhưng chuẩn mực mới ko phải dịch lại theo IAS/IFRS mặc dù vẫn dựa trên nền tảng, nguyên tắc cơ bản. Nhìn chung, xét về hệ thống chuẩn mực, CMKT Trung Quốc đã hình thành trên nền tảng của IAS/IFRS.
Tuy nhiên, giữa CMKT Trung Quốc và IAS/IFRS có những điểm khác biệt rõ rệt, cụ thể CMKT Trung Quốc không phát triển và áp dụng hầu hết giá trị logic, đề nghị công bố các bên liên quan được chỉnh sửa lại cũng như không thực hiện đánh giá tổn thất tài sản. Trong nghiên cứu của Jean Jinghan Chen and Peng Cheng (2007), về mức độ hội tụ của CMKT Trung Quốc và IAS/IFRS trong thực tế đi tới kết luận rằng Trung Quốc chỉ hội tụ về hình thức vì CMKT Trung Quốc được che đậy bên ko kể sở hữu IAS/IFRS nhưng thực chất Trung Quốc vẫn áp dụng chính sách kế toán doanh nghiệp. Trong nghiên cứu của Tymothy Doupnik, Hector Perera (2007) nhìn nhận rằng phương bí quyết tiếp cận của Trung Quốc sở hữu tính “đối phó” giữa IAS/IFRS và thực tế. phương pháp tiếp cận này thực chất chỉ là hội tụ bên ngoại trừ, được che đậy bởi hệ thống CMKT quốc tế nhưng thực tế Trung Quốc không vận dụng theo những nguyên tắc chuẩn mực mà vẫn thực thi chính sách kế toán nhà hàng. Qua đấy cho thấy, 1 thời gian dài Trung Quốc đã vận dụng “chiến thuật” nhằm thích ứng dần có các cải phương pháp trong hệ thống kế toán quốc gia. Bản chất thận trọng vẫn được quan tâm trong việc thực thi chính sách kinh tế toàn cầu.
Trước sức ép ngày càng gia tăng từ những tổ chức quốc tế, đặc thù trong hội nghị nhóm những quốc gia vững mạnh (G20) được tổ chức tại London tháng 4.2009, theo ấy Trung Quốc cần xây dựng lộ trình hội tụ đầy đủ CMKT quốc tế. Trong báo cáo dự thảo của Ngân hàng thế giới được công bố tháng 10.2009 về lộ trình và tiếp tục hội tụ hầu hết giữa ASBE mang IAS/IFRS. Theo báo cáo, nhìn chung ASBE về cơ bản đã đáp ứng hội tụ CMKT quốc tế nhưng CMKT nên được hội tụ 1 cách toàn diện và hầu hết. Đồng thời, ASBE cam kết quá trình chuyển đổi từ 2009 tới kết thúc 2011 và đã lên chương trình những nội dung cơ bản cho lộ trình hội tụ đầy đủ.
gần đây, BTC của Trung Quốc tuyên bố quốc gia này áp dụng gần như theo IFRS nhưng sở hữu một số dòng trừ. Đồng thời BTC cho biết tất cả các doanh nghiệp với qui mô lớn và vừa sẽ cần áp dụng theo CMKT từ năm 2012.
Nhìn chung, hội tụ kế toán quốc tế là hướng đi tích cực của những quốc gia trên thế giới. các ích lợi từ việc sử dụng ngôn ngữ kinh tế chung toàn cầu đã giải quyết được bài toán thống nhất thông tin trình bày trên BCTC của những quốc gia, đáp ứng xu hướng toàn cầu hóa kinh tế. nhiều quốc gia và khu vực kinh tế thế giới đang hướng đến chuẩn mực quốc tế và tích cực ủng hộ, tham gia, chung tay góp sức trong việc xây dựng chuẩn mực quốc tế thành chuẩn mực toàn cầu chất lượng cao. Tuy nhiên, viễn cảnh hội tụ kế toán quốc tế từ chuẩn mực tới thực tiễn là cả một quá trình đầy thử thách bởi thực trạng việc vận dụng chuẩn mực quốc tế vào chính những quốc gia và từng khu vực theo các bí quyết tiếp cận khác nhau, điển hình mang khu vực kinh tế như EU áp dụng thống nhất IAS/IFRS nhưng từng chuẩn mực cần được thông qua tổ chức; sở hữu quốc gia áp dụng nguyên bản IAS/IFRS như Úc nhưng có chỉnh sửa, bổ sung thể hiện chính sách trung lập trong quá trình thực thi; sở hữu quốc gia áp dụng IAS/IFRS có tính hình thức như Trung Quốc, được thể hiện bên bên cạnh là IAS/IFRS nhưng thực tế vẫn thực thi chế độ, chính sách kế toán doanh nghiệp; và lại sở hữu quốc gia hình thành những “sức ép” về kinh tế, chính trị như Mỹ nhằm đạt tới sự hội tụ CMKT quốc tế nhưng “có điều kiện”. Mặc dù viễn cảnh hội tụ kế toán quốc tế còn phổ biến cản trở và khó khăn buộc phải hướng đến để đạt được mục tiêu chung nhưng hội tụ kế toán quốc tế là xu hướng tất yếu khách quan trong tiến trình quốc tế hóa kinh tế.


Từ phân tích trên, mang thể thấy tiến trình hội tụ kế toán quốc tế là hướng đi tích cực đáp ứng xu thế toàn cầu hóa kinh tế nhưng quá trình đó cũng đầy cam go và phức tạp. Trước tình hình ấy, 1 quốc gia đang tăng trưởng như Việt Nam không thể đứng không tính loại chảy hội nhập quốc tế. Song, Việt Nam bắt buộc nên nhận định đúng đắn tình hình để sở hữu những lộ trình yêu thích, đáp ứng phát triển kinh tế.
với thể thấy, hệ thống kế toán Việt Nam chịu tác động bởi đa dạng yếu tố tụ hội từ môi trường kinh doanh, môi trường pháp lý và môi trường văn hóa. Theo thời gian, mức độ chi phối, ảnh hưởng của những khía cạnh đã dần hình thành hệ thống kế toán Việt Nam có bản sắc riêng. Xét ở môi trường kinh doanh, Việt Nam là quốc gia đang vững mạnh, chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường theo định hướng Xã hội chủ nghĩa. Nhìn chung, thị trường tài chính Việt Nam trong những năm gần đây sở hữu các biến chuyển tích cực, đặc thù là TTCK đã với những tiến triển nhất định. Mức độ lạm phát trong nền kinh tế được kiểm soát, ổn định ko ảnh hưởng đến biến động của nền kinh tế. Đối mang môi trường pháp lý, Nhà nước giữ vai trò quyết định trong hệ thống kế toán quốc gia, cụ thể Luật kế toán được Quốc hội ban hành, các chế độ tài chính được ban hành bởi Thủ tướng chính phủ, hệ thống CMKT và các thông tư hướng dẫn được BTC ban hành. ngoại trừ ấy, hệ thống kế toán bị chi phối bởi những qui định của thuế. Trước đây lợi nhuận kế toán sắp giống lợi nhuận của thuế như những qui định trích lập khấu hao TSCĐ, doanh thu nội bộ… Tuy nhiên từ các năm 2001, những quan điểm đã dần với những thay đổi, cụ thể các đạo luật đã giảm bớt mức độ chi phối cho hoạt động kế toán bằng việc cho phép trích lập những khoản dự phòng, hình thành những khoản thuế hoãn lại… Hơn nữa, Hội Kế toán và Kiểm toán Việt Nam (VAA) mặc dù thời gian hình thành và hoạt động đã lâu từ những năm 1994, nhưng ko mang vai trò lập qui cũng như mức độ ảnh hưởng và chi phối còn hạn chế. Riêng về môi trường văn hóa, sự tác động của văn hóa tới hệ thống kế toán Việt Nam ngày nay vẫn chưa sở hữu các nghiên cứu chính thống. Tuy nhiên về cơ bản, Việt Nam chịu ảnh hưởng nhiều theo văn hóa Á Đông, bản chất thận trọng được đề cao, nhấn mạnh đến sự tuân thủ những qui định, hạn chế các vấn đề sở hữu tính xét đoán.
Từ các yếu tố trên, với thể thấy hệ thống kế toán Việt Nam với các đặc điểm cơ bản: hệ thống kế toán được qui định thống nhất từ chứng từ, sổ kế toán, tài khoản và các BCTC; hệ thống kế toán còn chịu ảnh hưởng của những qui định về thuế; hệ thống kế toán liên quan tới ghi nhận và đo lường đảm bảo tính tuân thủ thể hiện qua việc ghi nhận giá gốc đối với các tài sản, hạn chế những xét đoán theo giá thông minh và mức độ trình bày và công bố thông tin trên BCTC còn tránh, với tính bảo thủ. Như vậy, với thể thấy hệ thống kế toán Việt Nam do Nhà nước giữ vai trò quyết định, chi phối đến hệ thống kế toán, ko những thế kế toán còn chịu ảnh hưởng bởi các qui định của thuế.
Từ thực trạng xu thế hội tụ kế toán quốc tế hài hòa các đặc điểm cơ bản trong hệ thống kế toán Việt Nam, cho thấy khó có thể áp dụng tất cả IAS/IFRS cho hệ thống kế toán Việt Nam. Hệ thống IAS/IFRS dường như phù hợp đối sở hữu những quốc gia phát triển nhưng chưa phù hợp trong điều kiện hiện nay của Việt Nam. bởi thế, trong giai đoạn đầu, nên tiếp cận theo xu hướng hoàn hợp theo khu vực mà cụ thể là khu vực đối với các công ty niêm yết. Đây là hướng đi mà đa dạng quốc gia trên thế giới áp dụng. Theo ấy, hệ thống CMKT Việt Nam với thể bao gồm hai phần, một phần dành cho các doanh nghiệp niêm yết, phần còn lại cho các công ty không niêm yết. Đối với những siêu thị niêm yết, CMKT được thực thi theo những IAS/IFRS. Riêng đối sở hữu các công ty ko niêm yết áp dụng những CMKT Việt Nam hiện hành nhưng theo hướng giản lược các nội dung phức tạp trong chuẩn mực. Điều này thể hiện sự hài hòa, linh hoạt nhằm giảm thiểu những biến động nhưng đảm bảo cho tiến trình lớn mạnh và hội nhập kinh tế quốc tế./.

0 nhận xét:

Đăng nhận xét